Căn cứ quyết định hình phạt

I. Căn cứ vào quy định của BLHS

Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

VBQPPL:

- BLHS (Điều 3, các điều từ Điều 31 đến Điều 45; các điều 50, 51, 52, 54, 55, 57, 58, 59, 65, Chương XII và Phần các tội phạm)

- Luật THAHS

Công việc chính và kỹ năng thực hiện:

Căn cứ vào quy định của BLHS khi quyết định hình phạt phải căn cứ vào các quy định của cả Phần chung và Phần các tội phạm của BLHS có liên quan đến việc quyết định hình phạt trong trường hợp cụ thể đó. Sau khi xác định bị cáo có phạm tội theo điều, khoản cụ thể của BLHS, để quyết định hình phạt đúng cần phải căn cứ vào quy định của BLHS như sau:

1. Căn cứ vào quy định về nguyên tắc xử lý tại Điều 3 BLHS

• Đối với người phạm tội:

- Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;

- Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội;

- Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;

- Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra;

- Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát giáo dục;

- Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có đủ điều kiện do BLHS quy định thì có thể được xét để giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện;

- Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hoà nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xoá án tích.

• Đối với pháp nhân thương mại phạm tội:

- Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;

- Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;

- Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;

- Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.

2. Căn cứ vào quy định về mục đích của hình phạt tại Điều 31 BLHS

•  Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội; do đó, hình phạt trước hết nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội.

•  Hình phạt có tác dụng giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Vì vậy, cần phải quyết định một hình phạt đúng để bảo đảm được tính trừng trị, nhưng đồng thời cũng bảo đảm được tính khoan hồng đối với người phạm tội. Không quá nhấn mạnh đến tính trừng trị mà xử phạt quá nặng và cũng không quá nhấn mạnh đến tính khoan hồng mà xử phạt quá nhẹ sẽ không có tính giáo dục.

•  Hình phạt còn phải nhằm mục đích giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

3. Căn cứ quy định về các hình phạt tại các điều từ Điều 31 đến Điều 45 BLHS

•  Nắm chắc hình phạt nào là hình phạt chính; hình phạt nào là hình phạt bổ sung; hình phạt nào vừa có thể là hình phạt chính vừa có thể là hình phạt bổ sung.

•  Cần nghiên cứu kỹ quy định về mỗi loại hình phạt cụ thể; đặc biệt là điều kiện áp dụng hình phạt đó.

•  Lưu ý quy định nào của loại hình phạt nào là bắt buộc, quy định nào có tính lựa chọn để thực hiện đúng.

  Ví dụ: Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội, cần chú ý:

-    Phải quyết định giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc UBND cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục;

-    Phải quyết định buộc người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ (các nghĩa vụ quy định tại Điều 36 BLHS và Luật THAHS) và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước (không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự). Chỉ trong trường hợp đặc biệt, mới có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án;

-  Người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ;

-  Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

4. Căn cứ quy định về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điều 51 và Điều 52 BLHS

•  Cần nắm chắc tình tiết nào là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS. Đây là một trong những điều kiện quan trọng của việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS (xem tiểu mục 6.2 mục 6 Phần thứ hai này).

•  Điều kiện áp dụng các tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

•  Khi xét xử vụ án về tội phạm cụ thể cần xem xét có tình tiết giảm nhẹ nào quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt của tội đó hay không để quyết định áp dụng hay không áp dụng tình tiết giảm nhẹ đó.

•  Lưu ý: Chỉ có các tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng (xem tiểu mục 6.2 mục 6 Phần thứ hai này).

5. Căn cứ quy định về quyết định hình phạt trong một số trường hợp cụ thể tại các điều 54, 55, 57 và 58 BLHS (nếu có).

6. Căn cứ quy định về miễn hình phạt tại Điều 59 BLHS (nếu có).

7. Căn cứ quy định về tội phạm cụ thể tại Điều luật tương ứng trong Phần các tội phạm.

8. Căn cứ vào các quy định khác của BLHS

• Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà cần phải căn cứ vào các quy định khác tương ứng của BLHS .

Ví dụ: Để quyết định cho hưởng án treo hay không cần phải căn cứ vào Điều 65 BLHS.

• Để quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào quy định tại điều luật tương ứng của Chương XII BLHS .

II. Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là căn cứ để phân chia tội phạm thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng biện pháp khác.

Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng là căn cứ để quy định loại hình phạt, khung hình phạt.

Đòi hỏi “cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội” được xuất hiện sau khi Toà án đã xác định bị cáo có phạm tội và điều, khoản cụ thể của BLHS được áp dụng. Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thường được thể hiện:

•  Xem xét, cân nhắc lỗi, mục đích, động cơ của người phạm tội; phương tiện phạm tội; thủ đoạn phạm tội; thời gian và địa điểm phạm tội; khách thể xâm hại v.v…

Ví dụ: Cùng dùng vũ khí cướp tài sản, nếu trong hai vụ án có cùng các tình tiết khác như nhau, nhưng trong vụ án thứ nhất, A thực hiện hành vi cướp tài sản có chuẩn bị từ trước và thực hiện cướp tài sản giữa ban ngày, nơi có dân cư đông đúc, còn trong vụ án thứ hai, B thực hiện cướp tài sản lợi dụng nơi vắng vẻ, khi thấy có người đi qua mới nảy sinh ý định thực hiện cướp tài sản, thì tuy cùng áp dụng điều khoản như nhau, nhưng phải quyết định mức hình phạt đối với A nặng hơn đối với B.

•  Xem xét, cân nhắc hậu quả do hành vi phạm tội gây ra bao gồm hậu quả thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và hậu quả phi vật chất (gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội).

Ví dụ: Cùng phạm tội trộm cắp tài sản, nếu trong hai vụ án có cùng các tình tiết khác như nhau, nhưng trong vụ án thứ nhất, M trộm cắp tài sản có giá trị 55 triệu đồng, còn trong vụ án thứ hai, N trộm cắp tài sản có giá trị 195 triệu đồng, thì tuy cùng áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS để xử phạt các bị cáo, song cần phải quyết định hình phạt đối với N nặng hơn M.

•  Nếu là vụ án có đồng phạm thì cần xem xét tính chất của đồng phạm có ít người hay có nhiều người tham gia; xem xét, cân nhắc vị trí, vai trò của từng người trong đồng phạm để cá thể hoá trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt.

•  Nếu phạm tội có tổ chức cần xem xét, cân nhắc tính chất của tổ chức có ít người hay có nhiều người tham gia; mức độ cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm; xem xét, cân nhắc vị trí, vai trò của từng người khi thực hiện tội phạm để cá thể hóa trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt.

III.Cân nhắc nhân thân người phạm tội

IV. Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự

Cần nghiên cứu kỹ tình tiết nào là tình tiết giảm nhẹ, tình tiết nào là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi xác định được các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, để quyết định hình phạt đúng cần phải cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và trách nhiệm hình sự như sau:

• Trong trường hợp cụ thể đó, người phạm tội có bao nhiêu tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS và có tình tiết giảm nhẹ nào quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS hay không. Có tình tiết giảm nhẹ nào là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt của tội đó hay không.

• Trong trường hợp cụ thể đó người phạm tội có bao nhiêu tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Có tình tiết tăng nặng nào đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt của tội đó hay không.

• Trong các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết nào đáng được chú ý hơn khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong trường hợp cụ thể đó.

• Trong các tình tiết tăng nặng, tình tiết nào đáng được chú ý hơn khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong trường hợp cụ thể đó.

• Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ, các tình tiết tăng nặng, mức độ giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định hình phạt cụ thể.

Công ty Luật TNHH ANP:

- VP Hà Nội: Tầng 5 Tòa N07, Phố Trần Đăng Ninh, P. Dịch Vọng, Q. Cầu Giấy, Hà Nội

- VP Hồ Chí Minh: Tầng 1, Số 232 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 6, Quận 3, TP.HCM

- Hotline: 090.360.1234

    Chia sẻ:

Để lại thông tin tư vấn

G