Trình tự, thủ tục ly hôn theo yêu cầu của một bên

I. THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thẩm quyền giải quyết vụ án ly hôn đơn phương thuộc về Tòa án.

- Theo cấp: Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý giải quyết các vụ án giữa công dân Việt Nam với nhau, công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng ở cùng khu vực biên giới với Việt Nam. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài.

- Theo lãnh thổ: Tòa án có thẩm quyền là tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Tuy nhiên, nếu hai bên có thể thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn là tòa án giải quyết vụ việc thì Tòa án nhân dân nơi cư trú của nguyên đơn cũng có quyền thụ lý vụ án.

II. THỦ TỤC LY HÔN THEO YÊU CẦU CỦA MỘT BÊN

Người khởi kiện chuẩn bị hồ sơ khởi kiện gồm:

– Đơn khởi kiện (Mẫu số 23 ban hành kèm theo Nghị quyết 01/2017/NQ-HĐTP);

– Giấy chứng nhận kết hôn bản chính (Trường hợp không còn Giấy chứng nhận kết hôn, người khởi kiện có thể nộp Trích lục kết hôn);

– Giấy tờ tùy thân, Sổ hộ khẩu của hai vợ chồng;

– Giấy khai sinh của con bản sao (Trường hợp tranh chấp quyền nuôi con);

– Giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền sở hữu đối với tài sản chung (Trường hợp tranh chấp tài sản chung);

– Ngoài ra, người khởi kiện có thể nộp kèm các chứng cứ, tài liệu chứng cứ về thu nhập, chỗ ở,… để chứng minh khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc con.

Người khởi kiện nộp hồ sơ khởi kiện ly hôn tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Tòa án sẽ xem xét hồ sơ có đủ căn cứ để thụ lý vụ án và yêu cầu người khởi kiện nộp tạm ứng án phí. Sau khi người khởi kiện hoàn thành các nghĩa vụ tài chính, Tòa án ra Thông báo thụ lý vụ án và tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định pháp luật để giải quyết vụ án.

III. CĂN CỨ GIẢI QUYẾT LY HÔN THEO YÊU CẦU CỦA MỘT BÊN

Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

Theo đó, Tòa án quyết định ly hôn theo yêu cầu của một bên nếu có một trong các căn cứ như sau:

1. Vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. Các hành vi bạo lực gia đình được liệt kê tại Điều 2 Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007, bao gồm:

– Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;

– Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

– Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;

– Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;

– Cưỡng ép quan hệ tình dục;

– Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;

– Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;

– Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;

– Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.

Bên cạnh hành vi bạo lực gia đình, Tòa án cũng có thể giải quyết ly hôn khi có căn cứ cho thấy quan hệ vợ chồng ở tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Điều 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn một số nội dung Luật hôn nhân và gia đình 2000 đã đưa ra hướng dẫn khá chi tiết về vấn đề này như sau:

“…a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:

– Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

– Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

– Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;

a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.

a.3. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.”

2. Vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích

Ở đây, tuyên bố mất tích của Tòa án đối với một người sẽ là căn cứ để Tòa án cho ly hôn khi có yêu cầu ly hôn của vợ hoặc chồng người mất tích. Tuyên bố mất tích được quy định tại Điều 68 Bộ luật dân sự 2015: “ Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.”

3. Vợ hoặc chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

Trong trường hợp này, không chỉ một trong hai bên vợ chồng mà cha, mẹ, người thân thích khác cũng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Khi nhận được yêu cầu, Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.

Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty Luật TNHH ANP về vấn đề ly hôn theo yêu cầu của một bên. Nếu cần hỗ trợ pháp lý, Quý khách vui lòng liên hệ:

Công ty Luật TNHH ANP:

- VP Hà Nội: Tầng 5 Tòa N07, Trần Đăng Ninh, P. Dịch Vọng, Q. Cầu Giấy, Hà Nội

- VP Hồ Chí Minh: Tầng 1, số 232 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 6, Quận 3, TP.HCM

- Hotline: 0912 772 008

- Email: congtyluatanp.hcm@gmail.com

    Chia sẻ:

Để lại thông tin tư vấn

G