GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TRANH CHẤP VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

1. Những lưu ý về tố tụng

VBQPPL:

- BLDS (các Điều 586, 588 và 599)

- Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP (tham khảo)

Công việc chính và kỹ năng thực hiện:

· Xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

- Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường (khoản 1 Điều 586 BLDS);

- Người chưa đủ 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 BLDS (đoạn 1 khoản 2 Điều 586 BLDS );

- Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của họ, nếu chưa đủ thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu (đoạn 2 khoản 2 Điều 586 BLDS );

- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường (khoản 3 Điều 586 BLDS ).

· Vụ án tranh chấp về bồi thường thiệt hại được chuyển đến Tòa án từ CQĐT hình sự, Tòa án vẫn phải hướng dẫn cho nguyên đơn khởi kiện theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

· Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc buộc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (Điều 588 BLDS).

· Lưu ý: Yêu cầu người có hành vi xâm phạm bồi thường thiệt hại là một trong những biện pháp bảo vệ quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản; tại khoản 2 Điều 155 BLDS quy định Tòa án án sẽ không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với “yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Điều 588 BLDS quy định “khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm” cho nên mặc dù yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản cũng là một trong những biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, nhưng vẫn áp dụng thời hiệu khởi kiện là 03 năm.

· Khi giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tính mạng bị xâm phạm phải đưa tất cả những người cùng hàng thừa kế thứ nhất của người bị hại, người mà người bị hại trực tiếp nuôi dưỡng hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng người bị hại vào tham gia tố tụng.

2. Các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

VBQPPL:

- BLDS (Điều 584)

- Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP (tham khảo)

Công việc chính và kỹ năng thực hiện:

· Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định cụ thể tại Điều 584 BLDS.

· Trường hợp thiệt hại do nhiều người gây ra thì cần làm rõ mức độ lỗi của mỗi người để xác định trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại hoặc trong trường hợp thiệt hại do có một phần hay toàn bộ lỗi của người bị thiệt hại thì cần làm rõ người bị thiệt hại có lỗi bao nhiêu %.

3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

VBQPPL:

- BLDS (Điều 585)

- Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP (tham khảo)

Công việc chính và kỹ năng thực hiện:

· Thẩm phán phải tôn trọng thoả thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thoả thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Ví dụ: Hai bên thỏa thuận bồi thường 03 năm một lần thì Tòa án công nhận sự thỏa thuận đó của các bên.

· Trường hợp các bên không thoả thuận được thì Thẩm phán phải áp dụng đúng các nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 585 BLDS:

- Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời: khi có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại về tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, Thẩm phán phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS để xác định xem thiệt hại bao gồm những khoản nào, thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu và mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương ứng. Ví dụ: Nhà ở bị làm hư hỏng phải tạm ngừng sử dụng. Chủ nhà yêu cầu bồi thường thu nhập bị mất về tiền cho thuê nhà. Nếu xác định được có việc cho thuê nhà và thiệt hại do không thu được tiền thuê nhà là có thật thì theo nguyên tắc nêu ở trên, yêu cầu bồi thường tiền thuê nhà phải được chấp nhận;

- Toà án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng một hoặc một số BPKCTT theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự;

- Lưu ý: Có một BPKCTT mà Tòa án có thể tự mình áp dụng, không cần phải có yêu cầu của đương sự và cũng không cần biện pháp bảo đảm là “Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm” (khoản 3 Điều 114 BLTTDS);

- Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai điều kiện sau đây:

+ Không có lỗi hoặc lỗi vô ý mà gây thiệt hại;

+ Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế của người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều này có nghĩa là thiệt hại mà một người có trách nhiệm bồi thường lớn hơn rất nhiều so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của người đó và về lâu dài thì người đó không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại.

- Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi mức bồi thường, đó là các trường hợp:

+ Do có sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện mới;

+ Do có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại mà mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với sự thay đổi đó; hoặc

+ Do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của người gây thiệt hại v.v...

- Khi bên bị thiệt hại có lỗi thì không được bồi thường thiệt hại phần do lỗi của mình gây ra (khoản 4 Điều 585 BLDS).

- Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại do không áp dụng các biện pháp cần thiết hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho mình (khoản 5 Điều 285 BLDS).

4. Xác định thiệt hại trong một số trường hợp cụ thể

4.1. Xác định thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

VBQPPL:

- BLDS (Điều 590 và Điều 593)

- Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP (tham khảo)

Công việc chính và kỹ năng thực hiện:

· Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại, bao gồm:

- Tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế;

- Chi phí điều trị, tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X-quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ, tiền viện phí;

- Chi phí bồi dưỡng phục hồi sức khỏe: Tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ;

- Các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có);

- Chi phí cho việc bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe cho nạn nhân để giúp cho người bị thiệt hại nhanh chóng bình phục, gọi là tiền bồi dưỡng cho nạn nhân.

· Lưu ý:

- Về mức bồi thường: Luật không quy định cụ thể nhưng thực tiễn xét xử nhiều vụ án thì việc xác định mức bồi dưỡng căn cứ vào mức độ, tính chất của thương tích cũng như dựa trên mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi nạn nhân đang điều trị thương tích; tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xác định khoản tiền bồi dưỡng phù hợp nhằm bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích của các bên;

- Tất cả những chi phí nói trên đều được dựa trên cơ sở hóa đơn, chứng từ hợp lệ theo chỉ dẫn của bác sỹ hoặc yêu cầu của bệnh viện, cơ quan trực tiếp cứu chữa cho nạn nhân. Đối với những trường hợp do điều kiện, hoàn cảnh khách quan việc cứu chữa của nạn nhân cần nhanh chóng kịp thời mà phải điều trị, cứu chữa tại chỗ thì mọi chi phí cũng cần phải có sự xác nhận của chính người trực tiếp cứu chữa;

- Chi phí điều trị hợp lý là những chi phí cần thiết theo mức thông thường bảo đảm được khả năng cứu chữa và phục hồi sức khỏe cho nạn nhân, còn những trường hợp điều trị không theo sự hướng dẫn của bác sĩ, dùng thuốc để điều trị bệnh khác, nằm điều trị ở những phòng dịch vụ đắt tiền... thì chi phí này không được coi là “hợp lý”.

· Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại, cụ thể như sau:

- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại;

- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại;

- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại;

- Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường.

· Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.

· Phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị (tính như đối với người bị thiệt hại). Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, NSDLĐ trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.

· Nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

· Khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị xâm phạm gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức bồi thường căn cứ vào mức độ đau thương, buồn phiền, sự ảnh hưởng nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình, cá nhân... để quyết định; mức bồi thường tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.

· Thiệt hại khác do luật quy định.

· Lưu ý:

- Để thuận tiện cho việc hướng dẫn đương sự xuất trình chứng cứ, tập hợp các chứng cứ, Thẩm phán cần yêu cầu đương sự chuẩn bị một danh mục hệ thống các khoản bồi thường do sức khỏe bị xâm phạm;

- Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm: Trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền bồi thường từ thời điểm mất khả năng lao động cho đến khi chết trừ trường hợp có thỏa thuận khác (khoản 1 Điều 593 BLDS).

4.2. Xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

VBQPPL:

- BLDS 2015 (Điều 591 và Điều 593)

- Luật HN&GĐ

- Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP (tham khảo)

Công việc chính và kỹ năng thực hiện:

· Các thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm như quy định tại Điều 590 BLDS.

· Chi phí hợp lý cho việc mai táng: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân.

· Lưu ý: Các khoản chi phí phải hợp lý: Là những khoản chi theo thông lệ chung mà thông thường theo phong tục tập quán tại địa phương khi mai táng phải chi như quan tài, vật dụng dùng cho việc khâm liệm mà ở nơi đó khi mai táng người ta thường sử dụng (không phải là loại đắt tiền). Đây là vấn đề rất khó, rất phức tạp, khi giải quyết, Tòa án cần căn cứ nhu cầu thực tế cần thiết ở địa phương để xác định tính hợp lý.

· Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...

· Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Cụ thể như sau:

- Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng: là những người không có khả năng lao động và không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng không đủ nuôi sống bản thân; được nạn nhân cấp dưỡng thường xuyên khi còn sống hoặc nếu còn sống. Ví dụ: Trước khi nạn nhân chết thì vợ của nạn nhân đang mang thai được 06 tháng, 03 tháng sau đứa trẻ mới ra đời. Như vậy, khi con nạn nhân ra đời thì người gây thiệt hại có trách nhiệm cấp dưỡng cho đứa trẻ;

- Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm người đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bị xâm phạm tính mạng. Trường hợp nghĩa vụ cấp dưỡng của người bị thiệt hại phát sinh sau khi người đó chết thì thời điểm bắt đầu bồi thường cấp dưỡng kể từ khi phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng;

- Mức cấp dưỡng: nên hòa giải để các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên không thỏa thuận được thì căn cứ những nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng như mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống của người được cấp dưỡng; căn cứ khả năng của người thực hiện cấp dưỡng mà quyết định;

- Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết (khoản 20 Điều 3; Điều 116 Luật HN&GĐ);

- Về thời gian hưởng cấp dưỡng: Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi, trừ trường hợp người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân;

- Người thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết (khoản 2 Điều 593 BLDS);

- Về phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng;

- Lưu ý: Việc xác định đối tượng áp dụng, thời gian áp dụng cũng như mức cấp dưỡng của Tòa án không phải luôn cố định nhưng trên thực tế nếu có sự thay đổi nào khiến cho việc xác định đó không còn phù hợp nữa thì người gây thiệt hại cũng như người được hưởng áp dụng có thể đề nghị với Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền xem xét và thay đổi cho phù hợp.

· Một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại… mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết việc bồi thường.

· Lưu ý:

- Để thuận tiện cho việc hướng dẫn đương sự xuất trình chứng cứ, tập hợp các chứng cứ, Thẩm phán cần yêu cầu đương sự chuẩn bị một danh mục hệ thống các khoản bồi thường do tính mạng bị xâm phạm;

- Thời hạn hưởng tiền cấp dưỡng tính từ thời điểm người bị xâm phạm chết và sẽ chấm dứt theo một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 593 BLDS;

- Đối với con đã thành thai của người chết, tiền cấp dưỡng được tính từ thời điểm người này sinh ra và còn sống.

4.3. Xác định thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm

VBQPPL:

- BLDS (Điều 592)

- Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP (tham khảo)

Công việc chính và kỹ năng thực hiện:

· Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại, bao gồm:

- Chi phí cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại. Trường hợp người thực hiện hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm đã in ấn tài liệu, tờ rơi, ấn phẩm... để xúc phạm danh dự, nhân phẩm nên người bị thiệt hại đã chi phí khoản tiền cần thiết để thu hồi lại những tài liệu, những ấn phẩm đó;

- Chi phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm;

- Tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác minh sự việc, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng;

- Chi phí tổ chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại;

- Các chi phí thực tế, cần thiết khác để hạn chế, khắc phục thiệt hại (nếu có).

· Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút: được thực hiện như trường hợp khi sức khỏe bị xâm phạm.

· Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm: Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt hại theo các khoản nói trên và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức bồi thường căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 10 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết việc bồi thường.

· Lưu ý: Để thuận tiện cho việc hướng dẫn đương sự xuất trình chứng cứ, tập hợp các chứng cứ, Thẩm phán cần yêu cầu đương sự chuẩn bị một danh mục hệ thống các khoản bồi thường do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

5. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

VBQPPL:

- BLDS (Điều 601)

- Luật Giao thông đường bộ

- Nghị quyết số  03/2006/NQ-HĐTP (tham khảo)

Công việc chính và kỹ năng thực hiện:

· Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như sau:

- Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra;

- Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thoả thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường;

- Ví dụ: Các thoả thuận sau đây được coi là không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường:

+ Cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại;

+ Chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã bồi thường;

+ Ai có điều kiện về kinh tế hơn thì người đó thực hiện việc bồi thường thiệt hại trước.

- Trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không theo đúng quy định của pháp luật mà nguồn nguy hiểm cao độ đó gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.

Ví dụ: Chủ sở hữu xe ô tô biết một người không có giấy phép lái xe ô tô, nhưng vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng xe ô tô cho người đó dẫn đến gây ra thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.

· Về nguyên tắc chung thì chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:

- Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

Ví dụ: Xe ô tô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị thương nặng hoặc bị chết. Trường hợp này chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ (xe ô tô) gây ra.

- Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

· Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (Ví dụ: khi họ đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật).

· Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ, có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

· Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác rồi sau đó nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại thì phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông, đã gây ra tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt:

- B chỉ được A thuê lái xe ô tô cho A và được trả tiền công. Trường hợp này, B không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe ô tô mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó. Do đó, A phải bồi thường thiệt hại;

- B được A giao xe ô tô thông qua hợp đồng thuê tài sản. Trường hợp này A không còn chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà B là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp. Do đó, B phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, nếu cũng trong trường hợp này, với sự đồng ý của A, B giao xe ô tô cho C thông qua hợp đồng cho thuê lại tài sản, thì C là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó. Do đó, C phải bồi thường thiệt hại nếu để xảy ra thiệt hại.

· Lưu ý:

- Đây là các trường hợp điển hình về trách nhiệm bồi thường thiệt hại không cần có lỗi. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp người chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đều phải bồi thường thiệt hại. Vẫn có trường hợp họ không có trách nhiệm bồi thường như theo quy định tại khoản 3 Điều 601 BLDS hoặc có trường hợp họ phải liên đới bồi thường như theo quy định tại khoản 4 Điều 601 BLDS ;

- Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại đã được quy định riêng trong BLDS thì trước tiên phải áp dụng những quy định riêng này. Đối với những trường hợp chưa được quy định riêng trong BLDS thì áp dụng những quy định khác của BLDS để giải quyết;

- Cần chú ý là khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Thẩm phán thường phải giải quyết đồng thời quan hệ hợp đồng bảo hiểm (được quy định trong pháp luật về bảo hiểm).

Công ty Luật TNHH ANP:

- VP Hà Nội: Tầng 5 Tòa N07, Phố Trần Đăng Ninh, P. Dịch Vọng, Q. Cầu Giấy, Hà Nội

- VP Hồ Chí Minh: Tầng 1, Số 232 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 6, Quận 3, TP.HCM

- Hotline: 090.360.1234

    Chia sẻ:

Để lại thông tin tư vấn

G