Trách nhiệm hình sự là gì? Quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự

1. Định nghĩa trách nhiệm hình sự

Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc người đó thực hiện tội phạm. Là kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự, được thể hiện ở bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án, hình phạt và một số biện pháp cưỡng chế hình sự khác do luật hình sự quy định.

Trong Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 2 như sau:

1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

2. Chỉ pháp nhận thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

Theo tinh thần của điều luật này thì chỉ khi cá nhân, pháp nhân thương mại thực hiện hành vi chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định như vậy giúp đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Trách nhiệm hình sự được đặt ra khi:

– Chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật;

– Chủ thể đã thực hiện hành vi được quy định trong luật hình sự là tội phạm;

– Còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và chủ thể không được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.

2. Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Điều 12 Bộ luật hình sự quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.

Theo khoản 1 Điều 12 BLHS, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác. Những tội phạm mà BLHS có quy định khác là những tội phạm có độ tuổi truy cứu trách nhiệm hình sự cao hơn so với tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 BLHS.

Ví dụ một số tội phạm sau đây đã được BLHS yêu cầu độ tuổi chịu TNHS phải đủ 18 tuổi trở lên: Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146); Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp (Điều 325)…

► Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, BLHS hiện hành đã có cụ thể hóa các tội phạm mà nhóm đối tượng này phải chịu trách nhiệm hình sự, bao gồm:

– Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh sự, nhân phẩm của con người: Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi);

– Các tội xâm phạm sở hữu: Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);

– Các tội phạm về ma túy: Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);

– Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng: Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);

– Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông: Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật). Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử). Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử). Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác). Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);

– Các tội khác xâm phạm an toàn công cộng: Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, yêu cầu bắt buộc của cơ quan tiến hành tố tụng là phải xác định tuổi của người thực hiện hành vi phạm tội. Thông thường, việc xác tuổi của người bị nghi thực hiện tội phạm sẽ căn cứ vào những giấy tờ chứng thực cá nhân như: Giấy chứng sinh, giấy khai sinh, chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân, hộ chiếu,…

Tuy nhiên, nếu đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết mà vẫn không xác định được chính xác tuổi của người thực hiện tội phạm bị nghi ngờ là người chưa đủ tuổi chịu TNHS, thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải dựa trên nguyên tắc suy đoán vô tội để xem xét, giải quyết.

Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của người bị buộc tội thì cơ quan chức năng phải áp dụng quy định tại Điều 417 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH để xử lý. Cụ thể:

– Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.

– Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.

– Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.

– Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.

– Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi. Trên cơ sở kết quả giám định, các cơ quan tiến hành tố tụng phải lấy tuổi thấp nhất trong khoảng độ tuổi tại kết luận giám định để xác định tuổi của họ.

Quy định nêu trên hoàn toàn phù hợp với quy tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự.

Trên đây là nội dung pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH ANP. Chúng tôi chuyên cung cấp các dịch vụ pháp lý về hình sự, tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của bị hại, tham gia bào chữa cho các bị can, bị cáo.

=> Luật sư bào chữa vụ án hình sự

 

    Chia sẻ:

Để lại thông tin tư vấn

G